22/10/2009
Địa đạo Vịnh Mốc là một công trình đặc biệt thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Địa đạo nằm trong một quả đồi đất đỏ ba gian sát bờ biển, cách bãi tắm Cửa Tùng khoảng 7km về phía Bắc, cách thị xã Hồ Xá chừng 13km về phía Đông Nam, cách đảo Cồn Cỏ ngoài khơi khoảng 30km về phía Tây. Địa đạo Vịnh Mốc như một bảo tàng vô giá, từng ngày từng ngày đón khách tới thăm. Vào năm 1965, không quân và pháo binh Mỹ liên tục đánh phá ác liệt, dã man vào khu vực Vĩnh Linh, nhằm ngăn chặn sự chi viện cho Miền Nam và đảo Cồn Cỏ anh hùng, Vịnh Mốc và hầu hết các làng quê khác trên đất lửa Vĩnh Linh đã bị đánh phá huỷ diệt.
Với ý chí "một tấc không đi, một ly không rời", bám trụ bảo vệ quê hương và giữ thông mạch máu chi viện cho tiền tuyến, quân và dân Vĩnh Linh đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất. Họ đã kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ, độc đáo mà địa đạo Vịnh Mốc là một minh chứng sinh động nhất.
Cuối năm 1965, các chiến sĩ đồn biên phòng 140, nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ đã chọn quả đồi sát mép biển, nằm ở phía Nam làng Vịnh Mốc, bổ nhát cuốc đầu tiên khai sinh ra làng hầm Vịnh Mốc kỳ vĩ này. Làng hầm như một toà lâu đài cổ nằm trong lòng quả đồi đất đỏ, có độ cao gần 30m, rộng hơn 7ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước khoảng 0,9m x 1,75m với độ dài 2.034m bao gồm nhiều nhánh nối thông với nhau qua trục chính dài 780m, có 13 cửa ra vào, được chống đỡ bằng cột nhà, gỗ và ngụy trang khá kín đáo, tất cả đều đào chếch theo hướng gió, đảm bảo chức năng thông hơi cho đường hầm.
Địa đạo gồm 3 tầng có độ sâu và chức năng khác nhau. Tầng 1 cách mặt đất 8 - 10m dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời; tầng 2 sâu 12 - 15m là nơi sống và sinh hoạt của dân làng; tầng 3 có độ sâu hơn 30m là nơi trung chuyển hàng hoá, vũ khí xuống thuyền ra đảo Cồn Cỏ. Khoét dọc hai bên đường hầm là những căn hộ gia đình, mỗi căn hộ đủ chỗ cho 3 - 4 người ở. Ngoài ra trong đường hầm còn có hội trường (sức chứa hơn 50 người dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim), 3 giếng nước, bếp Hoàng Cầm, kho gạo, trạm phẫu thuật, trạm gác, máy điện thoại… đặc biệt có nhà hộ sinh. Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại (từ 1965 - 1972), có 17 đứa trẻ ra đời an toàn, không một người nào bị thương đã nói lên sự lựa chọn đúng đắn, là sự tích kỳ diệu về mảnh đất và con người nơi đây.
Vừa sản xuất, vừa chiến đấu, quân và dân Vịnh Mốc tổ chức hàng trăm chuyến thuyền nan tiếp vận cho đảo Cồn Cỏ vững vàng chiến đấu. Đảo Cồn Cỏ được Nhà nước tuyên dương anh hùng 2 lần, trong đó có sự đóng góp xứng đáng của quân và dân làng hầm Vịnh Mốc.
Đây thực sự là một công trình trí tuệ và sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vịnh Mốc. Ròng rã 18 tháng trời dưới mưa bom, bão đạn, trong điều kiện thiếu ánh sáng, thiếu phương tiện, với chiếc cúp trong tay, họ đã làm nên một kỳ tích cho sự tồn sinh để sống và chiến đấu giành độc lập, tự do. Làng hầm ra đời đã tạc vào lịch sử của quân dân Vĩnh Linh - Quảng Trị một nét son rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao cả. Chiến tranh đã lùi xa, còn đó một làng hầm huyền thoại ngày ngày truyền lại niềm tin, ý chí cho thế hệ hôm nay và mai sau về sức mạnh nội lực của dân tộc Việt Nam. Từ đây, tất thảy bạn bè và những người từng là "kẻ thù" đều phải thừa nhận sự thần kỳ của một đất nước, một dân tộc mà sự tồn tại và chiến thắng của nó là tất yếu. Có rất nhiều dòng cảm xúc về làng hầm này đều công nhận: " Địa đạo Vịnh Mốc giống như một toà lâu đài cổ nằm im lìm trong lòng đất, giấu kín biết bao điều kỳ lạ về những con người đã làm ra nó và thời đại nó đã sinh ra". Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Bộ Văn hoá - Thông tin đã có Quyết định công nhận địa đạo Vịnh Mốc là di tích quốc gia và đưa vào danh mục di tích đặc biệt quan trọng. Địa đạo Vịnh Mốc là điểm thu hút du khách ngày càng nhiều, cả khách trong nước và nước ngoài. Ngày nay, địa đạo Vịnh Mốc đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng và luôn được trân trọng. Những ai chưa một lần đến thăm địa đạo Vịnh Mốc hãy dành thời gian đến đây để khám phá, chiêm ngưỡng, cảm nghĩ, hồi tưởng về cuộc chiến đấu giành giật cuộc sống đầy khâm phục của quân dân Vĩnh Linh. Các bạn sẽ có thêm những giây phút tự hào về dân tộc mình, quê hương mình. Địa đạo Vĩnh Mốc là một minh chứng hùng hồn về khát vọng sống mạnh liệt và yêu chuộng hoà bình của dân tộc Việt Nam.
Phan Thanh Quyên
Trung Tâm Thông tin Du lịch - TCDL Người đăng: admin
01/10/2009
Thôn Đìa vốn xưa là một làng cổ có tên chữ là “Bồng Trì” thuộc tổng Nhân Hữu, huyện Gia Bình; nay là một thôn thuộc xã Bình Dương, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Làng xã nơi đây gắn liền với bề dày lịch sử và văn hiến của dân tộc. Song bề dày lịch sử và văn hiến của làng Đìa đã được hội tụ và phản ánh ở ngôi đình làng, bởi đây chính là hồn của quê hương, đất nước Thôn Đìa thuộc xã Bình Dương là vùng đất cổ bên bờ Vùng đất này có các con sông dòng chảy cổ bao bọc, không những tạo điều kiện thuận lợi cho các làng xã phát triển nghề nông trồng lúa, màu, đánh bắt thủy sản, giao lưu buôn bán, mà còn tạo điều kiện cho dân cư giao lưu văn hóa; nên từ ngàn xưa đã thu hút người Việt cổ về đây sinh cơ lập nghiệp tạo dựng nên những làng xóm. Trải nhiều thời đại, cộng đồng cư dân nơi đây đã xây dựng nên những làng xã trù phú và văn hiến. Dấu ấn về các làng Việt cổ ở vùng đất này còn để lại ở tên đất, tên làng, phong tục tập quán và đặc biệt là trong tín ngưỡng hội hè: Phùng Xá gồm 2 thôn (Bùng Thượng và Bùng Hạ) vẫn còn đó ngôi đền thờ Côn Nương là nữ tướng của Hai Bà Trưng có công đánh giặc Tô Định (Đông Hán). Bồng Trì gồm 2 xóm (Đìa Trên và Đìa Dưới) có 2 miếu cổ (còn gọi là Nghè) truyền rằng là nơi 2 vị “Sơn Thần” có công phù giúp Hai Bà Trưng đánh giặc. Các làng trên thờ phụng các vị Thần có công phù giúp Hai Bà Trưng đánh giặc hoặc thờ phụng các danh tướng của Hai Bà Trưng, đã cho biết làng xã nơi đây có từ thời Hùng Vương và đến đầu công nguyên nhân dân đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống giặc Đông Hán. Trong lịch sử, làng xã nơi đây từng là đất khoa bảng với tên tuổi và giai thoại của tiến sĩ Trần Danh Tân. Tên tuổi của ông được lưu danh ở văn bia Văn miếu Bắc Ninh cho biết như sau: Trần Danh Tân sinh năm 1708 là người xã Bồng Trì, thuộc gia tộc có truyền thống khoa bảng; năm 18 tuổi thi Hương đỗ đầu; năm 29 tuổi thi Hội đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời Lê ý Tông. Ông làm quan đến chức Thừa chính sứ, về trí sĩ. Mặt khác, căn cứ vào “bia hậu” của thôn Gia Phú, bia “hội tư văn” của thôn Phương Độ và bia “văn chỉ” của thôn Đìa thì làng xã nơi đây còn có nhiều người đỗ cử nhân, tú tài, sinh đồ; làm quan hàng tỉnh hay triều đình đều là những người có công với dân với nước. Dẫu bao biến cố của lịch sử, song các dòng họ sinh sống ở làng Đìa bao giờ cũng giữ được truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc nhau để cùng chung xây quê hương mình ngày thêm giàu đẹp. Những thành quả văn hóa cộng đồng của bao thế hệ người làng Đìa xây dựng, gìn giữ và phát huy chính là quần thể di tích đình, đền, chùa cổ kính thâm nghiêm. Đình làng Đìa nằm ở giữa làng là nơi thờ Thành hoàng làng, vị thần bản mệnh che chở phù giúp cho cộng đồng làm ăn người khang vật thịnh. Chùa làng Đìa có tên chữ là “Quang Linh tự” nằm ở phía Tây là nơi dân làng thờ Phật nhằm cầu may, sống hướng thiện. Hai ngôi miếu cổ nằm ở phía Đông và phía Tây của làng và truyền rằng: Miếu Hiền Nhân thờ vị thần là “Đại tướng quân” có công đánh giặc. Miếu chợ Đìa truyền rằng thờ “Thổ Thần”, phía ngoài có giếng cổ nên còn thờ “Bà Chúa giếng”. Xưa trên Đường Văn Chỉ còn có một Văn chỉ tổng Nhân Hữu là nơi thờ các vị tiên hiền tiên triết khoa bảng của quê hương. Hiện đình làng Đìa còn bảo lưu được một văn bia của văn chỉ hàng tổng này. Làng Đìa còn có 2 miếu (còn gọi là Nghè) ở phía Đông và phía Tây của làng, truyền rằng là nơi 2 vị quan “Sơn Thần” địa phương linh hiện phù giúp Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán. Song bề dày lịch sử và nét văn hiến tiêu biểu của làng Đìa đã được hội tụ và phản ánh ở ngôi đình làng. Đình làng Đìa vốn được khởi dựng từ lâu đời thờ Thành hoàng làng. Đến thời Nguyễn được trùng tu tôn tạo và còn để lại dấu ấn ở Hậu cung năm trùng tu trên câu đầu với dòng chữ Hán “Tự Đức thập nhị niên” (1859) và vì nóc ván mê chạm nổi mặt Hổ phù. Thực hiện lệnh tiêu thổ kháng chiến chống Pháp, ngôi đình cổ ấy bị phá dỡ, chỉ còn giữ lại một phần Hậu cung. Năm 1992, dân làng phục dựng tạm mấy gian Tiền tế. Đến năm 2000, dân làng cùng nhau công đức trùng tu tôn tạo lại ngôi đình theo quy mô và dáng vẻ truyền thống. Căn cứ vào bản Thần tích chữ Hán của thôn Đìa có niên đại gốc “Hồng Phúc nguyên niên” (1572) và được sao lại vào năm Vĩnh Hựu 6 (1740) thì đình thờ các vị “Sơn Thần” có công phù giúp Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán. Việc tôn thờ các vị thần trên không những phản ánh bề dày lịch sử của làng xã nơi đây, mà còn góp phần soi sáng trang sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Giá trị của đình làng Đìa còn được thể hiện ở những tài liệu, cổ vật quý giá như: bia đá có tên “Phả lục bi ký” niên đại “Duy Tân 9”, ghi khắc lại bản Thần tích của đình làng; bản Thần phả chữ Hán niên đại Vĩnh Hựu 6 (1740); bản “Thần tích thần sắc” được kê khai năm 1938, cho biết về lai lịch công trạng của Thành hoàng làng, những ngày sự lệ của đình làng và còn cho biết thông tin về 5 đạo sắc phong của người được thờ với các niên đại: “Tự Đức 6”, “Tự Đức 33”, “Đồng Khánh 2”, “Duy Tân 3”, “Khải Định 9”; bản Hương ước được Lý trưởng kê năm 1944; các bia đá có tên và niên đại như sau: bia có tên “Hậu thần bia ký” niên đại Tự Đức 5 (1852), bia có tên “Hậu tự bi ký” niên đại Tự Đức 16 (1863), bia có tên “Văn chỉ tòng bi ký” niên đại thời Nguyễn (đây là một trong những tấm bia thứ 3 của Văn chỉ của tổng Nhân Hữu). Giá trị của đình làng Đìa còn được thể hiện ở lễ hội truyền thống: Theo tục lệ làng Đìa, hàng năm cứ đến ngày mùng 10 tháng 3 (âm lịch), đình làng lại được mở hội. Vào hội, từ mùng 9 đình đã được mở cửa để bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt, buổi chiều làm lễ nhập tịch. Sáng mùng 10, hai xóm Đìa Trên và Đìa Dưới tập trung để rước bát hương của các Thần từ nghè trên và nghè dưới về đình để tế lễ và mở hội. Đám rước bao giờ cũng phải đầy đủ cờ kiệu, siêu đao, bát bửu, tàn lọng, chiêng trống và các quan viên tế lễ. Trong những ngày lễ hội, sau phần tế lễ là phần hội với nhiều tục trò dân gian vui chơi giải trí thu hút đông đảo nhân dân địa phương vào những sinh hoạt văn hóa văn nghệ vui tươi lành mạnh. Đình thôn Đìa là công trình văn hóa tín ngưỡng cộng đồng gắn liền với bề dày lịch sử, văn hiến của cộng đồng làng xã nơi đây. Đình còn bảo lưu được những di sản văn hóa vật thể là những cổ vật quý như thần phả, sắc phong, bia đá và di sản văn hóa phi vật thể như truyền thuyết, tín ngưỡng, lễ hội, không những đã phản ánh bề dày lịch sử, văn hiến của quê hương, mà còn góp phần làm nên văn hiến xứ Kinh Bắc-Bắc Ninh. Người đăng: saigonopentour.com
15/09/2009
Hà Giang là mảnh đất hội tụ của đa dạng nền văn hoá. Đó là mảnh đất của 22 tộc người cư trú và mỗi dân tộc mang đến cho Hà Giang một nét văn hoá độc đáo riêng. Người Mông Người Giáy
Người đăng: saigonopentour.com
15/09/2009
Chùa Đất Sét còn có tên là Bửu Sơn Tự nằm ở khóm 1, phường 5, thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Chùa nổi tiếng bởi những vật được tạo hình từ đất sét. Từ tháp Đa Bảo 13 tầng, tháp Bảo Tòa cao hai mét, đến Lục Long Đăng và nhiều thứ khác đều làm bằng đất sét, sau đó được phủ ngoài bằng nước sơn, kim nhũ. Chùa Đất Sét là một công trình kiến trúc độc đáo ở Việt Nam.
Ở Sóc Trăng, phần lớn các ngôi chùa đều xây theo kiểu Khơ-me, duy có ngôi chùa người Việt có một không hai ở nước ta, nổi tiếng từ Nam ra Bắc, đó là chùa Đất Sét, còn gọi Bửu Sơn tự. Chùa Đất Sét đuợc xây dựng từ rất lâu để thờ Phật tại gia của dòng họ Ngô do ông Ngô Kim Tòng, sinh 1909, mất 1970, xây dựng từ năm 1928 và sau 42 năm thì hoàn thành; Tất cả từ tháp Đa Bảo 13 tầng, tháp Bảo Tòa cao hai mét, đến Lục Long Đăng và hàng ngàn bức tượng lớn, nhỏ làm bằng độc một chất liệu: đất sét! sau đó được phủ ngoài bằng nước sơn, kim nhũ và dầu bóng nên trông giống như làm bằng chất liệu đồng. Chùa Đất Sét là một công trình kiến trúc độc đáo ở Việt Nam. Đất sét phơi khô đập nhỏ, giã thành bột, rây bỏ tạp chất, nhào với chất keo đặc biệt gồm bột nhang và ô đước cộng với trí tưởng tượng phong phú, bàn tay tài hoa khéo léo của mình, ông Ngô Kim Tòng đã ra cột, kèo, phù điêu, tượng... thật kỳ công. Tổng cộng chùa có 1.991 tượng Phật lớn nhỏ, 2 ngôi tháp, 1 tòa sen, 4 con thú linh thật lớn. Tháp Đa Bảo cao 13 tầng, mỗi tầng có 16 cửa, mỗi cửa có một tượng Phật. Tổng cộng tháp Đa Bảo có 208 cửa, 208 vị Phật và 156 con rồng đỡ cho 13 tầng tháp. Toàn bộ tháp này cao chừng 4,5 mét. Kế đó Tháp Bỏa Tòa để thờ Phật cao chừng 2 mét, phía trên theo hình bát giác tượng trưng cho bát quái: Càn - khảm - cấn - chấn - tốn - ly - khôn - đoài. Trên cùng của tháp là một tòa sen có 1.000 cánh, mỗi cánh có một tượng Phật ngự, hết thảy 1.000 tượng Phật với nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Ngoài ra, ông Tòng còn tạo hình các danh thú như Kim Lân, Thanh Sư, Bạch Hổ, Long Mã, Bạch Tượng... có ba cái đỉnh, mỗi cái cao 1,5 mét, bảy cái lư hương nhỏ. Người đăng: saigonopentour.com
06/08/2009
Xưa kia, làng cổ Lộc Yên thuộc huyện Tiên Phước (Quảng Ngoài những cây trái đặc trưng phối cảnh cho những ngôi nhà cổ là những con đường lát toàn bằng đá núi dẫn vào nhà. Nhưng điều đặc biệt nơi làng là nhà nào cũng có ngõ đá. Mỗi ngõ đá có mỗi kiểu dáng khác nhau mang nét riêng của từng ngôi nhà. Xen lẫn những ngôi nhà cổ là những ngôi nhà xây mới hơn nhưng ngõ đá thì vẫn còn đó, đầy ắp rêu phong. Người dân làng cổ Lộc Yên vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện xưa có thật nhưng cũng đầy màu sắc huyền thoại. “Làng này ngày xưa cọp hay về bắt người, bắt lợn gà lắm, nên nhà nào cũng có mõ, trống… cứ mang ra ngõ đá khua lên là cọp bỏ chạy” - ông Huỳnh Sào (80 tuổi) kể. Ông Sào vẫn còn lưu giữ những bức bình phong, những tranh vẽ, những bức ảnh đen trắng… diễn tả lại cảnh săn bắt cọp ngày xưa mà ông được tham trực tiếp. Tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Nãi (80 tuổi), mới vừa đến ngõ đá đã nghe mùi thuốc bắc thơm thoang thoảng, ông Nãi làm thầy bắt mạch, bốc thuốc từ hồi còn rất trẻ. Ngoài đống lưới vây bắt cọp ngày xưa, ông mang ra nào giáo mác, mõ, tù và… rồi say sưa kể về những năm tháng cả làng vây bắt cọp do chính bố ông là người chỉ huy. Mỗi khi có người đi rừng phát hiện thấy cọp trong núi Dương Rọ hoặc núi lân cận chạy về báo là ngay lập tức, tiếng tù và, mõ của bố con ông vang lên khắp các ngõ đá và cả làng truyền nhau chạy vào rừng vây bắt cọp. Có khi cọp trốn ở trong núi lâu cả tháng trời mới bắt được. Ông còn cho xem đầu heo rừng do ông săn bắt cách đây vài năm, ông nói đó là con heo rừng độc chiếc, có bộ nanh dài hơn gang tay, tàn phá hoa màu khủng khiếp. “Tôi đảm bảo, cọp có đói nhưng thấy con heo ni là không dám lại gần”. Tiễn tôi ra ngõ đá trước nhà, tay ông cầm tù và. Và để nhớ lại thời xưa ấy, ông thổi một hồi cho vui. Tiếng tù và vàng vọng vào từng con ngõ đá cổ trong làng. Người đăng: saigonopentour.com
|